Trong dạy học và giáo dục, thầy giáo dùng nhân cách của mình để tác động vào sinh viên. Nhân cách của người thầy giáo biểu hiện ở nhiều mặt. Đó là lòng yêu mến sinh viên, là trình độ học vấn, là sự thành thạo về nghề nghiệp, là lối sống, cách xử sự và kỹ năng giao tiếp của người thầy giáo. Cũng với lý do đó mà tôi có thể khẳng định rằng trong giáo dục phải “Dùng nhân cách để giáo dục nhân cách”.
Trong phạm vi hạn hẹp của bài viết này, tôi xin trình bày những suy nghĩ của mình về điều đó cũng như nêu lên những gì mà tôi xây dựng, rèn luyện nên nhân cách cho bản thân mình.
Giáo dục là nghề đào tạo con người, là nghề lao động nghiêm túc và vô cùng gian nan. Người làm công tác giảng dạy - giáo dục không thể và không được phép làm hỏng những tâm hồn người. Đó là một tội lỗi không thể chuộc lại được và cũng không thể tha thứ được. Mọi thứ vật chất đều quý nhưng không thể sánh bằng tâm hồn một con người. Trong giáo dục, công cụ chủ yếu của lao động người thầy giáo là bản thân ông thầy, là nhân cách của chính mình, cho nên nghề giáo đòi hỏi thầy giáo về những phẩm chất và năng lực rất cao. Điều đó bao gồm kiến thức chuyên môn vững chắc và cuộc sống chân chính, nghiêm túc và phải luôn có ý thức nâng cao kiến thức và kỹ năng sống cho bản thân mình. Người làm công tác giảng dạy phải luôn luôn bồi bổ kiến thức để có vốn mà truyền đạt cho sinh viên.
Nhưng nhân cách của người giảng viên là gì? Nó gồm những gì? Nói đến nhân cách là nói đến tổng thể những phẩm chất và năng lực tạo nên bản sắc và giá trị tinh thần của mỗi người. Như vậy có thể hiểu rằng nhân cách là một hệ thống bao gồm phẩm chất (đức) và năng lực (tài). Trong phẩm chất của người thầy giáo, trước hết phải có năng lực chuyên môn. Điều này được hình thành dưới nhiều ảnh hưởng khác nhau mà trước hết là trình độ học vấn của người thầy giáo, là việc nghiên cứu nội dung giảng dạy, là ảnh hưởng của toàn bộ thực tế đất nước như lịch sử, địa lý, kinh tế, khoa học kỹ thuật. Thế giới quan của giảng viên chi phối nhiều mặt hoạt động cũng như thái độ đối với hoạt động của giảng viên như việc lựa chọn nội dung và phương pháp giảng dạy, kết hợp giữ nội dung học tập và thực tiễn cuộc sống cũng như phương pháp xử lý và đánh giá họat động, biểu hiện tâm lý của sinh viên. Yếu tố thứ hai đóng vai trò hạt nhân trong cấu trúc phẩm chất người thầy giáo là lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ. Lý tưởng của giảng viên có ảnh hưởng sâu sắc đến việc hình thành nhân cách sinh viên và nó biểu hiện bằng lòng say mê nghề nghiệp, lương tâm nghề nghiệp, sự tận tụy với sinh viên, với công việc, tác phong làm việc nghiêm túc, có trách nhiệm và lối sống giản dị, chân tình. Những điều này sẽ để lại dấu ấn tốt đẹp trong tâm trí người sinh viên; chúng có tác dụng hướng dẫn, điều khiển quá trình hình thành và phát triển nhân cách sinh viên. Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ không phải là cái có sẵn mà người giảng viên phải rèn luyện tích cực mới có được rồi qua đó, nhận thức của người thầy về nghề nghiệp càng được nâng cao lên, tình cảm nghề nghiệp càng tăng lên. Yếu tố thứ ba của phẩm chất giảng viên là lòng yêu sinh viên - đó là sự yêu thương, tận tình và ân cần với học trò. Tôi nghĩ đối với một nhà giáo dục, điều chủ yếu là tình người, đó là nhu cầu sâu sắc trong con người. Có lẽ những mầm mống của hứng thú sư phạm là ở chỗ hoạt động sáng tạo đầy tình người để tạo ra hạnh phúc cho con người. Đó là một điều vô cùng quan trọng. Người giảng viên sẽ không có thái độ phân biệt trong cách đối xử giữa học trò thông minh và học trò chậm hiểu mà quan tâm một cách thiện ý đến học trò, tuy nhiên điều đó không có nghĩa là người thầy thiếu nghiêm khắc, không tạo động lực cho sinh viên phấn đấu học tập. Lòng yêu học trò luôn đan lồng và gắn bó chặt chẽ với lòng yêu nghề. Có thể nói, nhà giáo chỉ yêu nghề khi còn biết yêu thương những người học trò của mình, bởi từ tình yêu thương lớn lao dành cho học trò, cho nghề nghiệp, người giảng viên mới có động lực để luôn phấn đấu, rèn luyện. Bàn đến nét phẩm chất này, chúng ta có thể nói rằng: “Để đạt được thành tích trong công tác, người thầy giáo phải có một phẩm chất - đó là tình yêu. Người thầy giáo có tình yêu trong công việc là đủ cho họ trở thành giảng viên tốt”. Bàn đến lòng yêu học trò, yêu nghề thì không thể không nói đến mối quan hệ thầy trò. Nó đóng một vai trò quan trọng trong công việc giáo dục sinh viên của thầy giáo. Nội dung, tính chất và các xử lý mối quan hệ này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dạy học. Một sinh viên không thể nào tôn trọng, khâm phục hay học hỏi được gì tốt đẹp khi người thầy của sinh viên đó có những biểu hiện không đứng đắn về mặt nhân cách hay yếu kém về mặt chuyên môn. Người thầy như một tấm gương để sinh viên soi vào đó, khám phá những điều mình chưa biết và phấn đấu hoàn thiện bàn thân mình. Để có thể là tấm gương sáng cho sinh viên, người thầy giáo phải tích cực rèn luyện chuyên môn, phải sống đúng mực, chân tình, công bằng, khiêm tốn, phải biết tự chiến thắng với những thói hư tật xấu của bản thân và có những kỹ năng điều khiển tình cảm, tâm trạng cho thích hợp với các tình huống sư phạm.
Khía cạnh thứ hai trong nhân cách người thầy giáo là năng lực sư phạm. Năng lực sư phạm của người giảng viên thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau mà trước hết là năng lực hiểu sinh viên. Một thầy giáo có năng lực hiểu sinh viên khi chuẩn bị bài giảng đã tính đến trình độ học vấn của sinh viên và bằng khả năng quan sát tinh tế của mình, thầy giáo sẽ biết được khả năng thẩm thấu nội dung bài giảng của nhiều đối tượng sinh viên, và do vậy, khi đứng trên bục giảng, người thầy biết đặt mình vào vị trí người học, họ biết được khối lượng kiến thức cần phải truyền đạt và qua đó họ sáng tạo ra những cách trình bày, những phương pháp giảng dạy sao cho hiệu quả nhất. Do vậy, tri thức và tầm hiểu biết của người thầy hết sức quan trọng trong việc tác động đến nhân cách sinh viên. Và như thế, người thầy phải biết luôn bổ sung vào vốn kiến thức chuyên môn cũng như kiến thức về thực tế cuộc sống để dẫn dắt sinh viên. Trong năng lực sư phạm của người giảng viên, không thể không kể đến năng lực chế biến tài liệu học tập. Bằng óc sáng tạo và khả năng phân tích, hệ thống, tổng hợp kiến thức từ kho tàng tài liệu, giảng viên phải làm công tác “gia công” tài liệu học tập sao cho phù hợp với đối tượng sinh viên của mình. Ngoài ra, thầy giáo phải nắm vững kỹ thuật dạy học chứ không đơn giản chỉ là cái máy rót chữ vào tai sinh viên. Một yếu tố quan trọng nữa là năng lực ngôn ngữ của người giảng viên. Có thể nói, một giảng viên không thể nào thực hiện được công tác giảng dạy nếu người đó gặp vấn đề về ngôn ngữ như nói lắp, nói ngọng, thiếu khả năng biểu đạt hoặc dùng ngôn từ không trong sáng, không logic, không sinh động. Người giảng viên nào biết khai thác thế mạnh của ngôn từ trong công tác giảng dạy sẽ luôn lôi cuốn sinh viên, sẽ giúp sinh viên hiểu bài nhanh hơn và hứng thú với môn học. Năng lực ngôn ngữ cũng tham gia vào năng lực giao tiếp sư phạm của người giảng viên – một quá trình đòi hỏi người thầy kỹ năng định hướng, định vị, kỹ năng sử dụng phương tiện giao tiếp và kỹ năng làm chủ xúc cảm bản thân. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, người giảng viên phải ý thức rằng mình là một tấm gương cho sinh viên soi vào, để các em trở nên tốt hơn. Tóm lại, cả về mặt kiến thức hay cách ứng xử trong cuộc sống hằng ngày, người giảng viên luôn là ánh sáng dẫn đường cho sinh viên.
Bản thân tôi không phải là người hoàn hảo, càng không phải là giảng viên xuất chúng nhưng những điều tôi trình bày trên đây xuất phát từ cái nhìn chủ quan của tôi về vai trò của người thầy giáo, về nhân cách người thầy trong công tác giảng dạy và giáo dục sinh viên. Theo tôi thì cả hai yếu tố tài và đức đã tạo nên cái gọi là uy tín của người nhà giáo. Người học trò có làm theo, có nghe theo lời thầy hay không thì phụ thuộc rất nhiều vào uy tín của giảng viên đó. Và cho đến giờ phút này, sau gần một thập kỷ đứng trên bục giảng, tôi nghiệm ra rằng mình chưa vi phạm điều gì để gọi là mất nhân cách! Tôi rất yêu nghề nhà giáo – yêu những học trò mới vượt qua tuổi chỉ biết học và chơi của mình - đó là lý do và cũng là động lực để tôi ý thức rằng phải nâng cao chuyên môn, rèn luyện kỹ năng ứng xử và biết thông cảm, sẻ chia với những lớp sinh viên của mình.